Lướt qua bức tranh nợ xấu của Việt NamVới quy định phân loại nhóm nợ hiện nay ở Việt Nam là 5 nhóm, các khoản nợ thuộc nhóm 4 và 5 là đáng quan tâm nhất trong vấn đề nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC, và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của cả hệ thống ngân hàng ước tính 3,79%. Sau 2 lần sửa đổi, bổ sung Thông tư 01/2000/TT-NHNN thì đến nay đã có khoảng 607 ngàn tỷ đồng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ. Nếu tính nợ tiềm ẩn trong số này thì tỷ lệ nợ xấu có thể lên đến 8,2%.
Việc chuyển đổi nhóm nợ, từ nhóm 4 sang nhóm 5 và ngược lại, sẽ làm bức tranh nợ xấu thay đổi rất nhiều. Lấy ví dụ như ngân hàng CTG, có một sự thay đổi kỳ lạ giữa quý 2/2021 và quý 3/2021 khi nhìn vào thuyết minh của bảng cân đối kế toán: nợ xấu có khả năng mất vốn từ 12 ngàn tỷ đồng xuống còn 3,5 ngàn tỷ đồng, và nợ nghi ngờ từ 1,2 ngàn tỷ đồng nhảy vọt lên 11,6 ngàn tỷ đồng.
Tuy vậy, khi nhìn tổng thể ở tổng giá trị 2 nhóm nợ này, mới thấy xu hướng tăng nợ xấu và tiềm ẩn xấu của hệ thống ngân hàng qua các ngân hàng lớn. Chỉ tính 3 ngân hàng lớn nhất niêm yết trên sàn chứng khoán là VCB, BID, và CTG, tổng nợ nhóm 4 và 5 đã tăng mạnh từ quý 1/2021. Cụ thể là là 32,6 ngàn tỷ ở quý 1, sang quý 2 là 37,2 ngàn tỷ và cuối quý 3 là 41,6 ngàn tỷ. Như vậy quý 3 đã tăng so với quý 1 là 27,6%, một con số đáng quan ngại.
Nguồn: tác giả tổng hợp từ Wichart.vn
Một chỉ số số khác cũng mô tả bức tranh nợ xấu của ngành ngân hàng đó là Dự phòng rủi ro cho vay khách hàng trên Bảng cân đối kế toán. Có thể thấy rất rõ là khoản dự phòng này từ đầu năm 2020, tức là từ khi Covid-19 bùng phát đến cuối quý 3/2021 đã tăng một cách đáng kể. Các ngân hàng lớn tăng trên 60%, như BID và VCB là khoảng 80%, còn VPB là 50%, và CTG là 13%. Việc tăng dự phòng này có thể được lý giải là do ngân hàng “cảm nhận” được rủi ro từ khách hàng, và cũng có thể là một cách để ngân hàng điều chỉnh lợi nhuận trong tương lai, nhưng người viết thiên về lý do đầu tiên hơn.
Dự phòng rủi ro
cho vay khách hàng, tỷ VND
Q3-2021 |
Q2-2021 |
Q1-2021 |
Q4-2020 |
Q3-2020 |
Q2-2020 |
Q1-2020 |
|
BID |
30054.8 |
28018.7 |
23422.3 |
18862.8 |
19618.7 |
18443.1 |
16616.2 |
VCB |
26432 |
24150.3 |
21477 |
19368 |
16962.5 |
16370.4 |
14548.4 |
CTG |
21464.2 |
18675.8 |
13911.5 |
12562.3 |
15122 |
12924.4 |
13078.7 |
VPB |
6217 |
4826.8 |
4571.2 |
4496.7 |
4860.9 |
4231 |
4154 |
TCB |
3373.1 |
2896.2 |
2490.8 |
2214.2 |
2047.8 |
2280.3 |
2983.4 |
Ngu
Nguồn: Wichart.vn
Hệ thống ngân hàng Việt Nam chắc vẫn còn ám ảnh nợ xấu giai đoạn 2012, khi mà tỷ lệ nợ xấu có lúc lên đến 17% và một số hệ lụy đến bây giờ vẫn chưa xử lý xong. Những kinh nghiệm đã thành công trong việc xử lý nợ xấu trước đây vẫn còn giá trị, nhưng trong điều kiện nền kinh tế đã có nhiều thay đổi, các giải pháp cũng cần thay đổi để thích ứng.
Sau khủng hoảng hoảng tài chính toàn cầu, các nền kinh tế lớn đã rất quan tâm đến vấn đề nợ xấu. Và Covid-19 xảy ra đã cho thấy ở đâu có sự chuẩn bị và đề phòng tốt, thì nợ xấu vẫn trong tầm kiểm soát. Và một trường hợp có thể tham khảo đó là EU.
Khi tình hình kinh tế có chiều hướng xấu đi, các ngân hàng EU đã tính toán và trích lập dự phòng từ rất sớm. Cùng với đó là việc rà soát, đánh giá và xác định các khoản vay có nguy cơ chuyển thành nợ xấu. Việc xác định chất lượng tài sản trên bảng cân đối của các ngân hàng vì vậy là rất quan trọng, và điều này đòi hỏi sự minh bạch cũng như việc đánh giá lại thường xuyên chất lượng của các khoản cho vay.
Trong số các giải pháp mà một số hệ thống ngân hàng ở EU đã áp dụng, có thể thấy một số giải pháp như sau.
Thứ nhất là xử lý trực tiếp trên bảng cân đối, tức là phải chấp nhận từ bỏ, hay ghi nhận khoản thiệt hại (write-offs). Điều này là thường khó chấp nhận với nhiều ngân hàng bởi vì họ luôn có hy vọng mọi việc sẽ tốt hơn, nhưng đáng tiếc là trong nhiều trường hợp, càng níu kéo thì thiệt hại về sau càng lớn. Bởi vì ngân hàng phải dành rất nhiều nguồn lực để xử lý các khoản vay này.
Thứ hai là ngân hàng thành lập một đơn vị độc lập, một dạng “in-house” để xử lý các khoản nợ xấu. Đây cũng là cách mà ở tầm hệ thống, các chính phủ lập ra công ty xử lý nợ như Việt Nam đã lập ra VAMC. Khi tách bạch việc xử lý nợ xấu ra khỏi hoạt động chính của bản thân ngân hàng hay cả hệ thống, sẽ ngăn chặn tính lây lan và sự phát triển của hoạt động chính sẽ quay trở lại giải quyết vấn đề.
Thứ ba là một dạng bảo hiểm từ chính phủ (Asset Protection Schemes - APS), tức ngân hàng nào có tỷ lệ nợ xấu cao, sẽ trả một khoản phí để đổi lại, nếu nợ xấu không thể thu hồi thì sẽ có được đền bù từ chính phủ. Tuy nhiên, giải pháp này đòi hỏi phải có hệ thống xếp hạng tín nhiệm tốt, và có những cân nhắc về chính trị xã hội.
Thứ tư là xử lý nợ xấu dựa vào hoạt động của thị trường: hoạt động của thị trường mua bán nợ và chứng khoán hóa các khoản nợ xấu. Trường hợp của Ý và Hy Lạp đã cho thấy việc chứng khoán hóa đem lại nhiều hiệu quả trong việc xử lý nợ xấu, cụ thể là chương trình HAPS của Hy Lạp năm 2019 và GACS của Ý năm 2016. Chính phủ sẽ đứng ra bảo lãnh và thực hiện chứng khoán hóa nợ xấu, tạo ra một công cụ tài chính mới gồm 3 lớp nợ là có đảm bảo (senior), không đảm bảo (junior), và chính giữa (mezzanine).
Như vậy, việc xử lý nợ xấu là có các công cụ hữu hiệu cũng như kinh nghiệm trước đây, nhưng quan trọng hơn hết là cần phải xác định được nợ xấu đúng với thực chất của nó. Nếu không, các giải pháp xử lý sẽ trở nên vô dụng vì cũng như thuốc tốt mà không trị đúng bệnh.
Hệ thống ngân hàng nói riêng và tất cả doanh nghiệp nói chung thì cách nào để giảm thiểu nợ xấu. Chia sẽ giúp em với ạ. Em cảm ơn
Trả lờiXóaủa, trong bài có nói nói rồi mà ta. còn nợ xấu thì tùy quy định là quá hạn bao nhiêu ngày.
Xóacho em hỏi mỗi giải pháp gq nợ xấu ở hệ thống ngân hàng EU áp dụng cho nợ xấu có bản chất ntn ạ? Vì em thấy bài viết ghi phải áp dụng tùy bản chất nợ xấu ạ. Em cảm ơn.
Trả lờiXóađâu có thấy chỗ nào đề cập tùy bản chất nợ xấu nhỉ ? họ linh hoạt nhiều biện pháp khác nhau thôi. cảm ơn em.
Xóa